GIẤY BẠC GIAI ĐOẠN I (TỪ 1875 ĐẾN 1923)
GIAI ĐOẠN I – KỲ I (PHÁT HÀNH NĂM 1876 – 1892)
franc của các nước châu Âu… nhưng không được người Việt tín dụng. Do vậy, năm 1883, Bác sĩ Harmand – được chính phủ Pháp cử làm Tổng ủy viên ký hòa ước Quý Mùi – đã cưỡng bức triều đình Huế phải cho các đồng tiền Mexicana và tiền của NHĐD được lưu hành song song với tiền Việt trên toàn cõi Việt Nam. Luồn theo đó, các đồng tiền ngoại nhập cũng mặc sức tung hoành trên thị trường
Đông Dương. Vì thế, NHĐD đã phát hành tiền giấy lần đầu bằng 3 thứ tiếng: mặt trước ghi”Banque de l’Indo – Chine” (chú ý chữ Indo – Chine viết rời) cùng hai cột song song chữ Anh và chữ Pháp:
* One dollar – Une piastre (mặt sau ghi chữ Hán: Nhất nguyên: tức 1 đồng bạc).
* Five dollars – Cinq piastres (Ngũ nguyên, tức 5 đồng bạc)
* Twenty dollars – Vingt piastres (Nhị thập nguyên, tức 20 đồng bạc).
* Hundred dollars – Cent piastres (Nhất bách nguyên, tức 100 đồng bạc).
Bộ bạc giấy này phát hành tại hai chi nhánh: Sài Gòn in màu xanh, Hải Phòng in cùng kiểu nhưng màu đỏ, kèm theo 2 hàng chữ bằng 2 thứ tiếng “To be paid on demand to bearer – Payable en espèces au porteur”, mặt sau cũng có hàng chữ Hán với nội dung tương tự, hàm ý: giấy tiền được thanh toán bằng số đồng tiền. Vì số tiền giấy được trả bằng bạc nên mỗi lần xuất kho một tờ thì đích thân Thủ quỹ Ngân hàng phải ký bằng tay trên tờ giấy bạc! Như vậy số lượng tiền giấy phát hành rất ít ỏi, chủ yếu là sử dụng đồng PDC nặng 27 gram bạc có ghi năm đúc trên đồng tiền.
French Indochina 5 Dollars/Piastres (Thời Pháp thuộc)
P-21 KM 5 Dollars/Piastres
Khuôn khổ: 95mm x 181mm
Màu sắc: Màu xanh dương trên nền kem
Mặt trước: Hình thần Neptune ngồi dựa con rồng
Mặt sau: Có chữ GIA ĐỊNH – TÂY CỐNG
Mặt sau: Có chữ Phụng bổn quốc đặc vụ: vâng lệnh nhà nước.
Đông Dương hội lý ngân hàng: Ngân hàng Đông Dương
Kiến tự giao ngân: Thấy giấy trả tiền
Ngân ngũ nguyên: 5 đồng