Tiền tệ Việt Nam qua các thời kì lịch sử
(sưu tập tin tức)
TS. Nguyễn Đại Lai (P.Vụ trưởng Vụ CSTT)
Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch sử “ra đời, phát triển và tiêu vong” của các thể loại, chất liệu, hình thức và giá trị của tiền Việt nam trong hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Tuy nhiên trong một khuôn viên hẹp, có cái nhìn khái quát về tiền tệ vấn đề mang tính “lịch sử, kinh tế và văn hoá”. Xin tạm phân chia các “Thời đại tiền tệ” của Việt nam ra thành các giai đoạn gắn với lịch sử kinh tế – Chính trị – Xã hội của đất nước.Thời kỳ các triều đại Phong kiến: Hầu hết các triều Vua, Chúa nước ta đều phát hành tiền bằng hai nguyên liệu chính là đồng và kẽm. Riêng Vua Hồ Quí Ly cho phát hành tiền giấy và chỉ tồn tại 4 năm từ 1400 đến 1404, đến 1405 lại trở về sử dụng bằng chất liệu tiền đồng và tiền kẽm.
Thời kỳ thuộc Pháp
Từ 1858 đến 1875 khi chưa có Ngân hàng Đông Dương (NHĐD) thì trên đất Việt tiêu đồng thời nhiều loại tiền khác nhau: Tiền Fran của Pháp, tiền Mêxicô, tiền “Liên hiệp Pháp”, tiền Trung Quốc…
Từ 1875 khi NHĐD thành lập thì dân ta tiêu tiền Đông Dương mang bản vị bạc. Đến 1880 tiền Đông Dương mang bản vị vàng, tiêu song song với đồng Fran của Pháp và các loại tiền đồng, tiền kẽm cũ. Từ 1880 đến 1930, tiền giấy Đông Dương ra đời và mang bản vị bạc, từ 1930 đến 1936 đồng tiền này mang bản vị vàng. Từ 1936 đến 1954 chế độ bản vị vàng bị sụp đổ và đồng Đông Dương neo giá trị vào đồng Fran của Pháp – có thể gọi là bản vị Fran Pháp.
Chế độ tiền tệ đa khu vực từ 1945 đến 1975: Thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp 1945 – 1951: Chính quyền cách mạng của chính thể VNDCCH phải lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến và kiến quốc – Trong đó vấn đề tài chính, tiền tệ được đặc biệt quan tâm và coi đó là một vũ khí sắc bén, trực tiếp của cả 2 nhiệm vụ chiến lược nói trên. Ngày 1/12/1945, đúng 3 tháng sau ngày thành lập nước VNDCCH – Mở đầu thời đại Hồ Chí Minh ở Việt nam, đồng tiền tài chính với chất liệu nhôm đầu tiên lọai hai hào của ta được phát hành, tiếp theo đó ngày 21/1/1946 ta phát hành đồng tiền nhôm loại năm hào, ngày 31/1/1946 phát hành tiền giấy gọi là “giấy bạc Việt Nam” đầu tiên ở miền Trung, ngày 13 tháng 8/ 1946 phát hành giấy bạc trên toàn miền bắc và sau kỳ họp Quốc hội lần thứ 2 vào tháng 11/1946, chính phủ đã cho phép Bộ Tài chính tiếp tục phát hành giấy bạc Việt nam trên phạm vi toàn quốc. Để phù hợp với chủ trương “tự cấp, tự túc, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến và địa phương tự lập”, Chính phủ đã cho hình thành một chế độ tiền tệ đặc biệt: vừa tập trung, vừa phi tập trung: Trên toàn quốc, nơi nào có điều kiện (chủ yếu là vùng tự do) thì lưu hành tiền tài chính (giấy bạc Việt Nam), nơi nào thuộc vùng địch kiểm soát thì tiêu đồng thời cả tiền Đông dương, cả tiền tài chính địa phương do chính phủ trung ương uỷ quyền cho chính quyền cách mạng địa phương phát hành và gồm cả “tiền Việt Nam hoá” bằng cách đóng dấu của Uỷ ban kháng chiến địa phương lên tiền địch để lưu hành…Đây không chỉ là thời kỳ đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, quân sự với địch, mà thuật ngữ “đấu tranh tiền tệ với địch” cũng trở thành một khẩu hiệu hành động trong chỉ đạo chiến lược của Đảng lao động Việt nam suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến (từ 19/12/1946 đến chiến thắng Điện biên phủ 1954). Đến 6/ 5/ 1951 tại sắc lệnh số 15/ SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chuẩn y việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam (NHQG VN) (để thay thế “Nha ngân khố quốc gia” và “Nha tín dụng sản xuất” trực thuộc Bộ Tài Chính đã thành lập trước đó trên cơ sở “Việt nam quốc gia Ngân hàng” thuộc Bộ Tài chính được thiết lập theo sắc lệnh số 86/SL ngày 17/9/1947 của Chủ tịch Chính phủ dân chủ cộng hoà Việt nam).
Ngay khi ra đời, NHQG đã chính thức phát hành đồng tiền giấy mang tên: “NHQG Việt Nam” thay đồng tiền Tài chính. Đổi 10 đồng tiền Tài chính ăn 1 đồng tiền NHQG – Một cuộc đổi tiền diễn ra tới 20 tháng – Dài nhất trong lịch sử đổi tiền của NHVN. Song vì tiền NHQG đầu tiên được in ra là để đổi đồng Tài chính trước đó nên hầu hết những người có tiền đổi là thuộc khu vực công chức hưởng lương từ NSNN nên đến tháng 2 năm 1959 Chính Phủ quyết định phân phối lại thu nhập và đã đổi tiền lần thứ 2 với tỷ lệ 01 đồng NHQG mới ăn 1000 đồng NHQG 1951 cũ. Với giá trị mới này, vào thời điểm từ tháng 2/1959 đến tháng 10/1960 một đồng NGQGVN bằng 1,36 Rúp Liên Xô và cũng tương đương 1, 2 USD. Cuộc đổi tiền năm 1959 được đánh giá là “ ngoạn mục” nhất trong lịch sử tiền tệ Việt nam. Đến tháng 10/ 1961 đồng tiền NHQG VN ở miền Bắc được đổi tên thành đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NHNN VN) với cùng một mệnh giá để tránh trùng tên với đồng tiền NHQG ở miền Nam của chính phủ nguỵ quyền Sài gòn.
Vào thời kỳ 1966 -1973 – thời kỳ cả nước có chiến tranh, Nhà nước đã cho phép Quân đội ở tuyến Trường Sơn sử dụng đồng “tiền Trường sơn” hay còn gọi là “phiếu bách hóa” – Một hiện tượng tiền tệ kỳ diệu đã giúp quân đội có một cơ chế “phân phối” rất linh hoạt: Thay vì bộ đội hậu cần phải chuyển nhu yếu phẩm đến từng đơn vị đóng quân dọc Trường sơn thì chỉ cần chuyển hàng đến từng binh trạm cố định. Việc phân phối sau đó đã trở nên vô cùng thuận tiện thông qua hình thức “mua hàng” và thanh toán bằng tiền Trường sơn theo tổng định lượng vật chất đã được giá trị hoá – Tính vô danh của tiền trong quan hệ phân phối đã giảm đi một chi phí khổng lồ về thời gian, chứng từ, tem phiếu, sổ theo dõi của cả hai bên nhập hàng và nhận hàng, đặc biệt là giảm biên chế hậu cần, giảm chi phí kho lán ở từng đơn vị và do đó cũng hạn chế thương vong xương máu trên đường đi phân phối nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Còn người “có tiền” thì tuỳ nghi chủ động đến các binh trạm để “ mua ” hàng cho đơn vị mình đồng thời lại tạo ra được sự đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau giữa những đơn vị và cá nhân, giữa Quân đội với Thanh niên xung phong trên toàn tuyến Trường sơn – Thay vì việc ủng hộ, tương trợ lẫn nhau bằng hiện vật vốn rất khó khăn và bất tiện thì những người lính dễ dàng ủng hộ nhau dưới hình thức giá trị của định lượng …
Chế độ tiền của chính quyền Ngụy Sài gòn từ 1954 đến 1975: Dưới sự đô hộ của Đế Quốc Mỹ, hầu như cả miền Nam là một thị trường tiêu thụ và cung ứng nguồn tài nguyên, sức lao động rẻ mạt – Bức tranh kinh tế thời chiến của chính quyền Sài gòn là một nền kinh tế phồn vinh giả tạo: Thủ công, lắp ráp và tiêu thụ. Chính quyền Ngụy có luật nghiêm cấm lưu hành đồng tiền miền Bắc và đồng tiền Đông Dương ở miền Nam. Chúng thành lập Ngân hàng năm 1954 và cũng lấy tên là NHQG Việt nam, cho phép tiêu song song đồng USD và đồng tiền Quốc gia với tỷ giá 35đồng Quốc gia ăn 1 đồng USD. Tỷ giá này ổn định từ năm 1954 đến năm 1960. Từ năm 1960 đến 1965 đồng tiền Ngụy mất giá dần dần và đến năm 1965 tỷ giá này còn 118đ/USD. Từ năm 1966 đến 1968 sức mua của đồng tiền Ngụy tiếp tục mất giá mạnh xuống còn 250đ/ USD và đến năm 1973 thì tỷ giá này đã là 500đ/ USD – giảm 14,3 lần so với thời kỳ những năm 1954 – 1960.
Từ năm 1975 đến năm 1984: Trong 3 năm đầu sau ngày miền nam giải phóng, để có một thời gian đệm cần thiết và quan trọng, hai miền vẫn dùng hai đồng tiền khác nhau: Miền Bắc vẫn là tiền NHNN VN, miền Nam tiếp tục dùng tiền của chính quyền cũ. Ngày 3/5/1975 chính quyền cách mạng tiếp quản NHQG của Nguỵ quyền Sài gòn và vẫn sử dụng đồng tiền của chế độ cũ trong lưu thông để không gây rối loạn trong lưu thông tiền tệ ở miền Nam những ngày đầu giải phóng. Ngày 6/6/1975 – 5 tuần sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam đã ra Nghị định số 04/PCT – 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Đến ngày 22/ 9/1975, dưới sự lãnh đạo của Bộ chính trị và TW Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà miền nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên qui mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là “Tiền Ngân hàng Việt Nam” (còn gọi là tiền giải phóng) vào lưu thông với tỷ lệ 1 đồng NHVN ăn 500đ tiền của chế độ cũ và tương đương với 1 USD. Ngày 2/5/ 1978 – Đúng dịp kỷ niệm 3 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam công bố đổi tiền lần thứ 3 trên phạm vi toàn quốc, thống nhất tiền tệ cả nước với tỷ lệ 1đ tiền NHNN cũ ở miền Bắc hoặc 0,8 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam ăn 1đ NHNN mới.
Sau bao biến cố của lịch sử, đồng tiền mới được thống nhất trên phạm vi cả nước. Lẽ ra đây sẽ là thời điểm đầu tiên của lịch sử phát triển tiền tệ của đất nước, nhưng đáng tiếc là vì nhiều nguyên nhân, đồng tiền lại rơi vào những thăng trầm mới.
Ngay sau đó do nền kinh tế nói chung còn ở trình độ quá nghèo nàn, lạc hậu lại do những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế – nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc trong cả nước nên lạm phát đã liên tục gia tăng – Từ chỗ giá trị đồng tiền mới sát với sức mua của đồng Dola Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị “doãng ra”. Đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, đến trước ngày đổi tiền tháng 9/1985 tỷ giá giữa đồng tiền NHNN VN so với đồng USD đã là: 150đ/USD.